Sáng nay 14/10/2019, Bệnh viện Phụ sản Trung ương thông tin về kỹ thuật mới được áp dụng thành công tại bệnh viện - phương pháp nong vòi tử cung qua soi buồng tử cung kết hợp với nội soi ổ bụng trên bệnh nhân vô sinh do tắc đoạn gần vòi tử cung.
Sáng nay 14/10/2019, Bệnh viện Phụ sản Trung ương thông tin về kỹ thuật mới được áp dụng thành công tại bệnh viện - phương pháp nong vòi tử cung qua soi buồng tử cung kết hợp với nội soi ổ bụng trên bệnh nhân vô sinh do tắc đoạn gần vòi tử cung.
Tham dự, chủ trì buổi họp báo có GS.TS. Nguyễn Viết Tiến, nguyên Thứ trưởng Bộ Y tế, Giám đốc Trung tâm hỗ trợ sinh sản quốc gia; Ths. Lê Đình Cường, Phó giám đốc bệnh viện; các bác sĩ khoa ĐTTYC và đông đảo đội ngũ phóng viên các báo, đài của Trung ương, Hà Nội và ngành Y tế đến đưa tin.
Phát biểu tại buổi họp báo, GS.TS Nguyễn Viết Tiến, Thứ trưởng Bộ Y tế, Giám đốc Trung tâm Hỗ trợ sinh sản quốc gia – người thực hiện kỹ thuật hiện đại, sáng tạo này cho rằng:tại Việt Nam, tỷ lệ vô sinh do vòi tử cung từ 43-59%. Trong đó, vô sinh do tắc đoạn gần vòi tử cung (đoạn kẽ, đoạn eo) chiếm khoảng 15-25%.
Cuộc gặp gỡ báo chí được tiến hành ngay sau ca mổ thành công cho sản phụ Nguyễn Thị N (1985, tại Bắc Giang). Chị N từng một lần mổ lấy thai năm 2005, con đầu năm nay đã 14 tuổi. Sau đó nhiều năm, chị N muốn có con tiếp nhưng càng mong càng vô vọng, dù vợ chồng đã tìm mọi cách, đi khắp nơi chạy chữa. Tại Bệnh viện Phụ sản Trung ương, chị N được chụp tử cung phát hiện cả hai vòi tử cung tắc. Tháng 10/2018, GS. TS Nguyễn Viết Tiến, đã trực tiếp phẫu thuật, nong tắc đoạn gần vòi tử cung cho bệnh nhân. Ca phẫu thuật được tiến hành thành công khi cả hai bên vòi tử cung đã được “thông”. Bệnh nhân bắt đầu có thai tự nhiên từ tháng 2 năm 2019 sau 4 tháng nong vòi tử cung. “Ở trường hợp này, trước đây chắc chắn sẽ phải thực hiện thụ tinh ống nghiệm. Tuy nhiên tại BV Phụ sản TW, sản phụ được thực hiện phương pháp nong hai vòi tắc đoạn kẽ, sau mấy tháng bệnh nhân đã có thai tự nhiên. Khi nhận được thông tin này từ phía bệnh nhân, chúng tôi đã rất vui. Đây là một niềm vui không chỉ đối với gia đình mà cả với đội ngũ y bác sĩ chúng tôi”. Đây là kỹ thuật do bệnh viện Phụ sản TW triển khai đầu tiên. Tuy nhiên GS Nguyễn Viết Tiến tiết lộ sẽ “không giữ làm bảo bối chung” mà “mong muốn các bệnh viện lớn có kỹ thuật nội soi thuần thục thì về BV Phụ sản TW học”. “Chúng tôi sẵn sàng chuyển giao. Giống như kỹ thuật thụ tinh trong ống nghiệm trước chỉ có bệnh viện Phụ sản trung ương làm sau cũng chuyển giao cho các bệnh viện khác”.
Theo suốt quá trình khám thai tại bệnh viện Phụ sản Trung ương, sáng ngày 14/10/2019, chị N được mổ lấy thai chủ động. Sau mổ, sức khỏe của chị ổn định, bé trai chào đời với cân nặng 3.700 gram trong niềm hạnh phúc vỡ òa của gia đình.
GS.TS Nguyễn Viết Tiến cho biết: nguyên nhân của tắc vòi tử cung do viêm nhiễm, từng nạo phá thai cũng đễ bị tắc, hay mổ lấy thai cũng dễ gây tắc vòi tử cung. Hiện nay trên thế giới đang có ba phương pháp áp dụng để điều trị vô sinh do tắc đoạn gần vòi tử cung: phương pháp vi phẫu tái tạọ lại đoạn gần vòi tử cung; phương pháp thụ tinh trong ống nghiệm; phương pháp nong tắc đoạn gần vòi tử cung qua nội soi. “Hiện nay với sự phát triển của kỹ thuật nội soi, nong vòi tử cung qua soi buồng tử cung kết hợp với nội soi ổ bụng là phương pháp đang được cho là hiệu quả, an toàn và có thể áp dụng rộng rãi. Nong vòi tử cung hết 20 triệu, trong khi thu tinh trong ống nghiệm tốn kém hơn rất nhiều. Phương pháp nong tắc đoạn gần vòi tử cung qua nội soi được triển khai tại bệnh viện Phụ sản TW từ đầu năm 2017. Bệnh nhân sau nong vòi tử cung sẽ được theo dõi có thai trong vòng 1 năm. Tại bệnh viện Phụ sản Trung ương cho đến thời điểm hiện tại đã phẫu thuật nong tắc đoạn gần cho 76 bệnh nhân vô sinh do tắc đoạn gần vòi tử cung. Tỷ lệ nong đoạn gần vòi tử cung thành công 68%, tỷ lệ có thai sau nong vòi tử cung 35%”. Tại Mỹ, Úc tỷ lệ này thấp hơn. Ngoài ra, với những ca có thai sau nong vòi, không có ca nào chửa ngoài dạ con. Hiện tại ở Việt Nam chỉ mới có bệnh viện Phụ sản Trung ương tiến hành, giúp bệnh nhân tiết kiệm chi phí mang lại hiệu quả cao.
Bài: Đặng Thị Mai Hương – Phòng Công tác xã hội
Ảnh: Đàm Văn Thành – Phòng Công nghệ thông tin